Lương hướng phải thích hợp với cơ chế thị trường theo từng địa bàn. Nguồn: internet 1. Vị trí của mức lương tối thiểu trong hệ thống chế độ lương Bây chừ, chính sách lương bổng ở nước ta được kết cấu bởi ba phần căn bản: Hệ thống chế độ lương hướng,gồm: mức lương tối thiểu; chế độ lương ngạch, bậc, cấp bậc, chức phận (hoặc lương cơ bản, lương chính); chế độ phụ cấp lương, v.V.. Các hình thức trả lương: cơ quan, đơn vị, doanh nghiệp chọn lựa, áp dụng các hình thức trả lương để gắn với kết quả thực hiện công việc, chức phận của người lao động. Cách (hoặc phương thức) trả lương:trực tiếp bằng tiền mặt hoặc qua account, trả theo tháng hay theo tuần v.V.. Như vậy, xét về tổng thể, mức lương tối thiểu chỉ là một chế độ trong hệ thống chế độ lương bổng và là một nội dung của chính sách lương hướng. Về mặt khái niệm, khi sử dụng thuật ngữ “lương bổng tối thiểu”, thì nội dung sẽ bao gồm “mức lương tối thiểu” và các khoản phụ cấp lương mà “mức lương tối thiểu” chưa tính đến như: phụ cấp khu vực, phụ cấp thu hút, phụ cấp đặc biệt, phụ cấp lưu động. Sắp tới, trong chương trình xây dựng luật và pháp lệnh của Quốc hội, sẽ xem xét, ban hành Luật lương bổng tối thiểu. Như vậy, vấn đề đặt ra là Luật tiền lương tối thiểu không chỉ điều chỉnh nội dung mức lương tối thiểu mà còn phải điều chỉnh cả các chế độ phụ cấp lương kể trên mới đúng với khái niệm “lương hướng”. Thành ra, trong hồ hết các trường hợp chỉ nên sử dụng khái niệm “mức lương tối thiểu” để hiểu cho xác thực. Để ban hành quy định về lương hướng một cách chém đẹp, chuẩn xác, cần thống nhất nhận thức một số khái niệm và thuật ngữ về lương bổng như sau: Lương bổng chế độ.“Tiền lương chế độ” là lương được xếp theo hệ thống chế độ lương lậu được cơ quan, tổ chức có thẩm quyền quy định cụ thể hoặc quy định khung, nguyên tắc làm cơ sở cho cấp thực hành thương thảo, thỏa thuận ghi trong giao kèo cần lao tương ứng với công việc hoặc chức phận phụ trách. Lương hướng thực hành.Căn cứ kết quả thực hiện công việc, chức vụ theo sản phẩm hoặc thời kì lao động, người lao động xác định được lượng lương lậu được nhận, đó là “lương thực hành”. Nếu gộp với một số chế độ ngoài lương bổng như: bữa ăn giữa ca, bữa ăn ca đêm, chế độ ăn định lượng, chế độ tẩm bổ độc hại, tiền hỗ trợ đi - về từ nơi ở đến nơi làm việc và trái lại; hỗ trợ tiền nhà ở, tiền gửi trẻ, tiền thưởng từ lợi nhuận..., Thì gọi là“thu nhập”. Không bao giờ “lương bổng thực hành” có trước “lương chế độ”, cũng có nghĩa các văn bản chẳng thể quy định các hình thức trả lương trước khi quy định hệ thống chế độ lương lậu. Lương lậu danh nghĩa.Lương hướng danh nghĩa là số lượng tiền mặt theo quy định của hệ thống chế độ lương hoặc số Diệt mối lượng tiền mặt thực nhận (thực hành) của người làm mướn hưởng lương. Lương bổng thực tiễn.Lương bổng thực tại là số lượng vật phẩm và dịch vụ cần yếu mà người làm thuê hưởng lương nhận được ứng với số lượng lương lậu danh nghĩa. Trong chính sách lương lậu, lương bổng thực tế là gốc, là nội dung cơ bản, lương danh tức là hình thức diễn đạt cụ thể bằng số lượng tiền mặt, là dụng cụ so sánh lương lậu và thanh toán lương hướng đối với người làm thuê hưởng lương. Chỉ số lương hướng thực tại.Chỉ số lương lậu thực tế là tỷ lệ % giữa chỉ số lương lậu danh nghĩa và chỉ số giá cả hàng hóa, dịch vụ tiêu dùng. Cụ thể: Nhu cầu sống tối thiểu.Nhu cầu sống tối thiểu là số lượng vật phẩm và dịch vụ cần yếu theo cơ cấu mà người cần lao (hoặc con người cụ thể nào đó) cần phải có để duy trì cuộc sống ở mức thấp nhất. Nhu cầu sống tối thiểu không giống nhau giữa các địa bàn, khu vực, giữa các nhà nước. Mức sống tối thiểu.Mức sống tối thiểu là số lượng tiền mặt được xác định nhằm đảm bảo nhu cầu sống tối thiểu. Nhu cầu sống tối thiểu, mức sống tối thiểu của người làm thuê hưởng lương, của lao động xã hội tự tạo việc làm và thu nhập, của dân cư không hoàn toàn giống nhau. Ngoài các khái niệm và thuật ngữ nêu trên, còn một số các khái niệm và thuật ngữ khác khi bàn đến lương hướng đang được các cơ quan, tổ chức, cá nhân chủ nghĩa sử dụng trong rất nhiều trường hợp mà không được giải thích, làm rõ để thống nhất nhận thức, dùng cho hợp, chuẩn xác, như: mức lương cơ sở; mức lương đủ sống; mức sống nhàng nhàng của các từng lớp dân cư; mức sống làng nhàng của dân cư tại địa bàn; mức sống làng nhàng trong từng lớp; mức sống bình quân cả nước, của địa bàn, của khu vực; lương làng nhàng - tiền lương bình quân; thu nhập bình quân của dân cư, thu nhập bình quân của lao động tham dự hoạt động sản xuất, kinh dinh... 2. Nhu cầu sống tối thiểu và mức lương tối thiểu Khoản 3 Điều 240 của Bộ luật lao động quy định: “Chính phủ ban hành chính sách lương cụ thể để ứng dụng đối với cán bộ, công chức, nhân viên, người thuộc lực lượng quân đội quần chúng, công an nhân dân”. Như vậy, theo quy định tại Điều 1, Điều 2 và Chương VI (tiền lương) Bộ luật cần lao, khuôn khổ điều chỉnh và đối tượng vận dụng nhu cầu sống tối thiểu và mức lương tối thiểu chỉ đối với người lao động có quan hệ cần lao làm việc trong các doanh nghiệp, tổ chức, cá nhân chủ nghĩa có thuê mướn lao động, không áp dụng và không làm căn cứ để xác định mức lương tối thiểu đối với cán bộ, công chức, nhân viên, người thuộc lực lượng vũ trang cũng như căn cứ để điều chỉnh lương người nghỉ hưu, trợ cấp ưu đãi người có công với cách mạng. Mức lương tối thiểu hiện hành (năm 2013): - Mức lương tối thiểu chung: 1,05 triệu đồng/tháng và từ tháng 7-2013 là 1,15 triệu đồng/tháng, ứng dụng đối với cán bộ, công chức, viên chức, người thuộc lực lượng vũ trang và là cơ sở để điều chỉnh tiền lương người nghỉ hưu; đóng - hưởng bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế của doanh nghiệp nhà nước. - “Sàn” mức lương tối thiểu của doanh nghiệp FDI, tư nhân và cơ sở để tính đơn giá tiền lương của doanh nghiệp quốc gia là: vùng I: 2,35 triệu đồng/tháng; vùng II: 2,1 triệu đồng/tháng; vùng III: 1,8 triệu đồng/tháng và vùng IV: 1,65 triệu đồng/tháng. Dự kiến điều chỉnh tương ứng là: 2,7 - 2,4 - 2,07 - 1,9 triệu đồng/tháng vào năm 2014 và 4,47 - 4,05 - 3,79 - 3,42 triệu đồng/tháng vào năm 2017 để đạt nhu cầu sống tối thiểu. Có một số vấn đề phát sinh đối với mức lương tối thiểu bây chừ là: Thứ nhất, hiện mức lương tối thiểu trong doanh nghiệp chỉ là “sàn”, còn cao hơn bao lăm cho hạp thì tổ chức đại diện tập thể người lao động (Công đoàn) phải hội thoại, thương thuyết, thỏa thuận cụ thể với người dùng cần lao. Nếu như Công đoàn không thực thụ đại diện được quyền và lợi ích hợp pháp của người lao động, quyền chủ động quy định về lương vẫn thuộc về người dùng lao động, người cần lao vẫn ở thế tiêu cực, phải chịu thiệt thòi về mức lương. Và khi đó quốc gia khó có thể theo kịp tình hình để điều chỉnh “sàn” lương tối thiểu cho hợp với tình hình thực tại. Thứ hai,để xác định được “sàn” mức lương tối thiểu thì “sàn” nhu cầu sống tối thiểu vùng là thế nào, cho ai, ở đâu, khi nào? theo tính tình hay theo điều tra trên thị trường lao động, cơ cấu tiêu xài cho mỗi vùng ra sao, phụ thuộc vào nhân tố gì. Trên thực tại, có rất ít người lao động đang được xếp và hưởng mức lương tối thiểu để có thể tính hoặc điều tra, khảo sát. Đây là các nội dung ít khi được làm rõ. Thứ ba, mức lương tối thiểu hiện nay và Dự kiến cho các năm tiếp có ứng với giá trị sức cần lao của người xếp và hưởng mức lương tối thiểu, có đảm bảo quan hệ “làm và ăn”, tích lũy và tiêu dùng theo vùng không?, quan hệ với thu nhập của các từng lớp dân cư ra sao?. Thứ tư,có mức lương tối thiểu hợp lý, nhưng không có biện pháp điều chỉnh, quản lý, kiểm soát được việc quy định chế độ lương (thang, bảng, mức lương, phụ cấp, định mức, trả lương) đối với người lao động trong doanh nghiệp như bây giờ thì tình hình lương hướng, tranh chấp cần lao, đình công trong các doanh nghiệp khó được cải thiện và không đi vào nền nếp. 3. Một số định hướng giải quyết vấn đề mức lương tối thiểu Trước năm 1993, mức lương tối thiểu được nhà nước quy định cứng cho những người làm mướn, hưởng lương, đẵn đối với khu http://vietnampcs.Com/dich-vu/dich-vu-diet-muoi-con-trung-hai/ vực quốc gia. Lương bổng khi tại chức và nghỉ hưu gắn kết chặt với nhau, điều chỉnh lương lậu người đương nhiệm phải song song điều chỉnh lương bổng người nghỉ hưu, còn trợ cấp ưu đãi người có công được tách rời với chế độ tiền lương. Từ năm 1993, khi thực hiện canh tân căn bản chính sách lương, tại thời khắc đó, việc can thiệp, điều hành giá cả hàng hóa tiêu dùng, dịch vụ sinh hoạt còn rất hạn chế, thiếu chủ động, cơ chế tự điều chỉnh của cơ chế thị trường chưa có ảnh hưởng nhiều nên buộc quốc gia phải quy định tạm bợ chế độ lương bổng với các mức lương, phụ cấp trong các thang lương, bảng lương, kể cả đối với doanh nghiệp nhà nước, theo hệ số tính so với mức lương tối thiểu. Một là, đổi thay lại vai trò, chức năng của mức lương tối thiểu. Mức lương tối thiểu được công bố là mức tối thiểu nhà nước, phản chiếu mức sống, mức độ phát triển toàn diện con người gắn với trình độ phát triển kinh tế-từng lớp; làm lưới an toàn chống bóc lột và đói nghèo; làm chuẩn để xác định mức thu nhập chịu thuế cá nhân chủ nghĩa; là cơ sở để tổ chức công đoàn các cấp thương thuyết, thỏa thuận mức lương tối thiểu và hệ thống thang, bảng lương, mức lương vùng, ngành, doanh nghiệp; làm cơ sở để xác định chất lượng việc làm, cơ sở để điều chỉnh lương lậu người nghỉ hưu, các chế độ trợ cấp tầng lớp và một số chế độ khác. Đa số các nước có Luật Lương tối thiểu cũng là các nước có tổ chức công đoàn mạnh, thành lập theo đúng nghĩa tự nguyện, độc lập, có năng lực đích thực đại diện và bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người cần lao, thương thuyết, thỏa thuận cụ thể lương lậu của từng ngành, nghề, lĩnh vực, doanh nghiệp; không dùng để quy định lương hướng đối với công chức, viên chức. Hai là, xác định và ban bố mức lương tối thiểu nhà nước và ổn định trong một số năm. Ở đây cần phân biệt, nhu cầu sống tối thiểu của dân cư tính cho cá nhân, tính cho mọi người dân từ già đến trẻ, cho người làm việc và không làm việc ở mọi vùng, miền của giang san, khác với nhu cầu sống tối thiểu của người lao động về tiêu hao lao động và tính cho cả người lao động và gia đình họ. Nên chi, không thể xác định nhu cầu, mức sống tối thiểu của dân cư để làm cơ sở cho việc quy định nhu cầu và mức sống tối thiểu của người cần lao mà chỉ có thể làm trái lại, xác định nhu cầu và mức sống tối thiểu của người lao động sau đó tính cho dân cư. Ba là, lương hướng phải thích hợp với cơ chế thị trường theo từng địa bàn.Muốn vậy, phải gắn bổn phận của chính quyền địa phương và tổ chức công đoàn địa phương với nhiệm vụ quản lý nhà nước, cuốn đầu tư, giao cho Ủy ban nhân dân cấp tỉnh hoặc cụm tỉnh kết hợp với tổ chức công đoàn, tổ chức để người sử dụng cần lao cùng cấp nghiên cứu, quy định hoặc ưng chuẩn Hội đồng lương lậu nhà nước quy định mức lương tối thiểu ứng dụng đối với các doanh nghiệp đóng trên địa bàn quản lý trên cơ sở mức lương tối thiểu nhà nước. Bốn là, cần thay đổi lại cách xác định lương của cán bộ, công chức, nhân viên, người thuộc lực lượng vũ trang; thay đổi chế độ bảo hiểm hưu trí theo phương pháp trương mục để tách cơ chế lương giữa các khu vực, tạo điều kiện thuận lợi cho việc cải cách căn bản chính sách lương hướng cũng như việc xác định, quy định nhu cầu, mức sống, mức lương tối thiểu. Theo lyluanchinhtri.Vn |
Chủ Nhật, 29 tháng 6, 2014
Một số vấn đề đặt ra trong việc xác định mức lương tối thiểu
Đăng ký:
Đăng Nhận xét (Atom)

Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét