Thứ Sáu, 31 tháng 1, 2014

Những đạo luật được trông mong năm 2014

Hiến pháp sửa đổi có hiệu lực từ 1/1/2014 Với 11 chương, 120 điều (giảm 1 chương và 27 điều so với Hiến pháp năm 1992), Hiến pháp nước CHXHCN Việt Nam được Quốc hội phê chuẩn năm 2013 đích thực là Hiến pháp của thời kỳ đổi mới toàn diện, đồng bộ về kinh tế và chính trị, đáp ứng đề nghị xây dựng, bảo vệ, phát triển giang sơn và hội nhập quốc tế trong thời kỳ mới. Từ 1/1/2014 Hiến pháp 1992 sửa đổi đã có hiệu lực thi hành. So với Hiến pháp năm 1992, Hiến pháp sửa đổi được Quốc hội ưng chuẩn năm 2013 có nhiều điểm mới cả về nội dung và kỹ thuật lập hiến; biểu hiện rõ và đầy đủ hơn bản tính dân chủ, tiến bộ của quốc gia và chế độ Việt Nam trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa tầng lớp; quy định rõ ràng, đúng đắn và đầy đủ về chế độ chính trị, kinh tế, văn hóa, giáo dục, khoa học, công nghệ và môi trường, quyền con người, quyền và trách nhiệm căn bản của công dân, bảo vệ giang sơn, tổ chức bộ máy Nhà nước, về hiệu lực và quy trình sửa đổi Hiến pháp. Hiến pháp đã diễn đạt rõ hơn thực chất của Nhà nước Việt Nam là quốc gia dân chủ, quốc gia pháp quyền Việt Nam xã hội chủ nghĩa của quần chúng. #, Do nhân dân, vì nhân dân, vớ quyền lực Nhà nước thuộc về dân chúng. Hiến pháp đấu khẳng định vị trí, vai trò lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước và xã hội, bổn phận của Đảng trước quần chúng. #; Khẳng định sức mạnh đại kết đoàn toàn dân tộc, vai trò của trận mạc sơn hà Việt Nam, Công đoàn và các tổ chức chính trị-xã hội và các tổ chức khác trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ giang sơn. Hiến pháp dấn, quý trọng và đảm bảo thực hiện quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân; đấu hoàn thiện thiết chế kinh tế thị trường định hướng tầng lớp chủ nghĩa, phát triển văn hóa, giáo dục, khoa học, công nghệ, bảo đảm công bằng xã hội, bảo vệ môi trường; đấu bảo vệ vững chắc sơn hà Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Hiến pháp tiếp khẳng định yêu cầu xây dựng và hoàn thiện quốc gia pháp quyền xã hội chủ nghĩa của quần chúng, do dân chúng, vì quần chúng. # Dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam. Luật Đất đai 2003 (sửa đổi ) Sau Hiến pháp 1992 (sửa đổi), Luật Đất đai 2003 (sửa đổi năm 2013) là đạo luật quan trọng được người dân cả nước quan hoài. Luật sẽ có hiệu lực thi hành từ 1/7/2014. So với Luật Đất đai 2003, Luật Đất đai (sửa đổi) có 14 chương với 212 điều, tăng 7 chương và 66 điều với rất nhiều điểm mới trội. Từ 1/7/2014, Luật Đất đai 2003 (sửa đổi) sẽ có hiệu lực thi hành. Trước hết, Luật Đất đai sửa đổi đã quy định cụ thể hóa các quyền bổn phận của quốc gia đối với người dùng đất; bổ sung những nội dung căn bản trong việc điều tra, đánh giá về tài nguyên đất đai để phục vụ cho kinh tế từng lớp mà Luật Đất đai năm 2003 chưa có quy định cụ thể. Một điểm mới được đánh giá cao trong Luật Đất đai sửa đổi là đã quy định đầy đủ, rõ ràng các đối tượng được Nhà nước giao đất, cho thuê đất và điều kiện để khai triển thực hiện các dự án đầu tư để quốc gia giao đất, cho thuê đất. Qua đó, có thể khắc phục một cách có hiệu quả việc giao đất, cho thuê đất một cách tràn lan chưa tính đến năng lực của các chủ đầu tư trong việc triển khai các dự án gây nên tình trạng dùng đất hoang phí, kém hiệu quả như trong thời kì vừa qua. Bên cạnh đó, Luật xác định rõ những trường hợp mà Nhà nước phải thu hồi đất; quy định cụ thể và đầy đủ từ việc thu hồi đất, đền bù, hỗ trợ tái định cư bảo đảm một cách công khai, sáng tỏ và quyền lợi của người có đất thu hồi; đồng thời khắc phục và điều tiết một cách hài hòa ích lợi giữa Nhà nước là chủ sở hữu về đất đai, người sử dụng đất và nhà đầu tư. Ngoài ra, Luật đã có một loạt sửa đổi, bổ sung mới rất đáng để ý như sau: quy định đảm bảo quyền và lợi. Của những người sử dụng đất hợp pháp được cấp Giấy chứng thực và đảm bảo thực hành các quyền của người sử dụng đất, song song khắc phục một cách cơ bản những trường hợp được cấp Giấy chứng thực quyền dùng đất với việc thực hành bổn phận tài chính với quốc gia; mở mang hạn giao đất nông nghiệp cho hộ gia đình, cá nhân sản suất nông nghiệp; mở rộng hạn mức nhận chuyển quyền dùng đất của hộ gia đình, cá nhân chủ nghĩa đáp ứng yêu cầu trữ đất đai phục vụ sinh sản nông nghiệp theo hướng hiện đại hóa; Luật đã biểu hiện một cách đầy đủ về quyền, trách nhiệm của người sử dụng đất hạp với từng hình thức dùng đất cụ thể như giao đất không thu tiền sử dụng đất, giao đất có thu tiền sử dụng đất, cho thuê đất. Mặt khác, Luật sửa đổi cũng đã quy định đầy đủ hơn sự bình đẳng về dùng đất giữa nhà đầu tư trong nước và nhà đầu tư nước ngoài hiệp với đề nghị hội nhập khu vực và thế giới nhằm cuộn đầu tư của các Nhà đầu tư nước ngoài. Đặc biệt, Luật Đất đai (sửa đổi) đã có thêm các quy định mới về hệ thống thông báo, hệ thống giám sát, theo dõi, đánh giá một cách công khai, minh bạch và bảo đảm dân chủ trong điều kiện đất đai thuộc sở hữu toàn dân. Luật Đất đai sửa đổi năm 2013 được đánh giá là đã khắc phục được một số tồn tại, hạn chế nảy trong quá trình thi hành Luật Đất đai năm 2003. Luật thực hiện tằn tiện, chống vung phí (sửa đổi) Điểm mới nhất trong Luật Thực hành tiết kiệm chống hoang toàng sửa đổi là đã có cơ chế quy trách nhiệm của những người đứng đầu cơ quan, tổ chức để xảy ra hoang toàng. Theo đó, dù không trực tiếp để xảy ra phung phá trong đơn vị mình trực tiếp quản lý, giao nhiệm vụ hoặc không xử lý hành vi vung phí theo thẩm quyền thì người đứng đầu cũng bị xử lý. Đặc biệt, người đứng đầu cơ quan, tổ chức, đơn vị cấp trên trực tiếp cũng phải chịu bổn phận liên đái và cũng bị xử lý về việc để xảy ra phí phạm trong cơ quan, tổ chức, đơn vị cấp dưới và trong đơn vị do cấp phó của mình trực tiếp đảm nhận. Tùy theo chừng độ, người đứng đầu có thể bị xử lý kỷ luật hoặc bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo quy định của pháp luật. Luật sửa đổi có hiệu lực kể từ 1/7/2014. Luật Đấu thầu (sửa đổi) Điểm đáng chú ý của Luật Đấu thầu sửa đổi là đã bổ sung một chương riêng về đấu thầu thuốc. Song song, đã thêm hoạt động mua hàng dự trữ nhà nước sử dụng vốn Nhà nước (trong đó có mua thuốc sử dụng vốn quốc gia, quỹ bảo hiểm y tế và các nguồn thu hợp pháp khác của các cơ sở y tế công lập) vào khuôn khổ điều chỉnh của Luật. Theo đó, toàn bộ các vấn đề về chọn lựa nhà thầu, hồ sơ dự thầu, hồ sơ đề xuất đối với lựa chọn nhà thầu cung cấp thuốc đều được thực hành theo quy định của Luật Đấu thầu. Luật đã quy định rõ Bộ Y tế có trách nhiệm ban hành các danh mục thuốc, đồng thời giao Chính phủ quy định nghĩa vụ của các bộ, ngành (kể cả Bảo hiểm tầng lớp Việt Nam) trong đấu thầu thuốc. Ngoài ra, để đảm bảo cạnh tranh trong đấu thầu, Luật Đấu thầu sửa đổi đã quy định rất chém và chi tiết đối với điều kiện độc lập về pháp lý và độc lập về tài chính giữa bít tất các loại nhà thầu với các bên can hệ. Trước đây Luật Đấu thầu 2005 chỉ yêu cầu một số loại nhà thầu độc lập về tổ chức và độc lập về tài chính, quy định cũng chưa thật đầy đủ và chặt đẹp. Nhằm khắc phục việc “đi đêm” giữa nhà thầu với các cơ quan tổ chức đấu thầu, Luật Đấu thầu sửa đổi đã hạn chế một số trường hợp được vận dụng “chỉ định thầu”. Song song để tạo môi trường tiện lợi, khuyến khích và lôi cuốn nhà đầu tư tư nhân tham dự vào các dự án đầu tư theo hình thức đối tác công tư, Luật cũng đã bổ sung quy định “chỉ định thầu” đối với nhà đầu tư và được ứng dụng trong trường hợp chỉ có một nhà đầu tư đăng ký và đủ năng lực thực hành dự án. Luật Đấu thầu sửa đổi có hiệu lực thi hành từ ngày 1/7/2014. Luật Tiếp công dân (Luật mới) Tiếp công dân là công tác quan yếu và mẫn cảm, tuy nhiên thời kì qua còn nhiều bất cập hạn chế. Để đổi mới công tác tiếp công dân, nâng cao hiệu quả công tác giải quyết khiếu nại, tố giác, Luật Tiếp công dân lần trước tiên được ban hành và bắt đầu có hiệu lực từ ngày 1/7/2014. Luật Tiếp công dân là sự kế thừa và bổ sung hợp lý các quy định của Nghị định 89/CP năm 1997 về Ban hành quy chế về tiếp công dân và Luật khiếu nại 2011. Một trong những nội dung cơ bản của Luật tiếp công dân là quy định về quyền, nghĩa vụ của công dân và quyền, nghĩa vụ của cán bộ tiếp công dân. Đáng chú ý nhất trong nội dung này là công dân được ủy quyền cho luật sư, trợ giúp viên pháp lý hoặc người khác thay mặt mình thực hành quyền khiếu nại theo quy định của pháp luật và cán bộ tiếp công dân phải có bổn phận hướng dẫn công dân khiếu nại, cáo giác, kiến nghị, đề đạt đến đúng cơ quan hoặc người có thẩm quyền giải quyết. Luật cũng quy định bổn phận chung của người đứng đầu cơ quan, tổ chức, đơn vị trong công tác tiếp công dân; bổn phận trực tiếp tiếp công dân của Thủ trưởng các bộ, ngành Trung ương và các sở, ngành địa phương, của Chủ tịch Ủy ban nhân dân các cấp; trách nhiệm trực tiếp tiếp công dân của Viện trưởng Viện kiểm sát các cấp, Chánh án tòa án các cấp; của người đứng đầu các cơ quan Kiểm toán quốc gia; người đứng đầu tổ chức chính trị, từng lớp; nghĩa vụ của cơ quan có thẩm quyền trong việc giải quyết khiếu nại, cáo giác, kiến nghị, phản ánh do Ban tiếp công dân chuyển đến. Đặc biệt, Luật Tiếp công dân có một chương quy định về tiếp công dân của Hội đồng dân tộc, các Ủy ban của Quốc hội, Ban dân nguyện của Quốc hội, Đoàn đại biểu Quốc hội, Đại biểu Quốc hội, Hội đồng nhân dân các cấp, các ban của Hội đồng dân chúng cấp tỉnh, cấp huyện, của Đại biểu Hội đồng quần chúng. # Các cấp. Luật Hòa giải ở cơ sở (Luật mới) Trước đây Ủy ban thường vụ Quốc hội đã ban hành Pháp lệnh số 09/1998/PL-UBTVQH10 về tổ chức và hoạt động hòa giải ở cơ sở. Với mục đích đẩy mạnh cách tân tư pháp và phát xuất từ ý nghĩa quan trọng của công tác hòa giải ở cơ sở đối với đời sống xã hội, Luật Hòa giải ở cơ sở đã được ban hành với tư cách một văn bản pháp luật có hiệu lực pháp lý cao để điều chỉnh hợp nhất, có hiệu quả hơn về tổ chức và hoạt động hòa giải ở cơ sở. So với Pháp lệnh về tổ chức và hoạt động hòa giải ở cơ sở, Luật Hòa giải ở cơ sở có những điểm mới sau đây: Luật mới đã song song quy định một số vụ việc không hòa giải như: tù đọng hình sự (trừ một số trường thống nhất định); hành vi vi phạm pháp luật bị xử lý vi phạm hành chính; kết hôn trái luật pháp; các tranh chấp nảy từ giao dịch trái pháp luật; các tranh chấp xâm phạm đến ích lợi của Nhà nước; các vi phạm luật pháp và tranh chấp khác mà theo quy định của pháp luật không được hòa giải. Luật còn bổ sung quy định về phạm vi điều chỉnh của Luật nhằm xác định rõ những vấn đề mà Luật điều chỉnh; bổ sung chính sách của Nhà nước về hòa giải cơ sở và bổ sung một điều mới quy định về mục đích hòa giải cơ sở nhằm khẳng định vị trí, vai trò, ý nghĩa xã hội to lớn của công tác hòa giải cơ sở trong đời sống xã hội, qua đó khẳng định về sự cần thiết xây dựng, ban hành Luật này. Nhật Lâm

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét