Thứ Năm, 30 tháng 1, 2014
Những câu chuyện về ngựa kỳ thú trong lịch sử
Trước thềm năm Giáp Ngọ 2014, chúng tôi xin đề cập đến một số câu chuyện thú vị có can dự tới những hình ảnh về chú ngựa. Đây là những đề tài khác lạ so với các chuyện về năm Ngọ thân thuộc đã từng được đề cập trước đây. ĐỘI KỴ BINH CỦA NỮ TƯỚNG SAMURAI Lâu nay chúng ta vẫn thường nghe nói về những samurai (võ sĩ đạo) là nam giới. Số samurai nữ rất hiếm hoi và ít khi được nhắc đến. Tuy nhiên, vẫn có những nữ samurai nức danh xuất hiện trong lịch sử phong kiến Nhật Bản và để lại những dấu ấn hào hùng. Một trong số họ là Nakano Takeko. Cô là tiểu thư con một vị quan thuộc thị tộc Aizu. Takeko đã được kiền cho huấn luyện võ nghệ cung kiếm lão luyện từ thuở nhỏ. Khi Takeko lớn khôn, cũng là lúc nước Nhật xảy ra những biến động lịch sử quan trọng. Hiệp ước Kanagawa được ký kết giữa Phó đề đốc Matthew C. Perry của hải quân Mỹ với đế quốc Nhật. Hiệp ước này khiến Nhật phải mở hai hải cảng Shimoda và Jakodate cho thương thuyền Hoa Kỳ vào buôn bán, chấm dứt thời kỳ bế môn tỏa cảng kéo dài 200 năm của sơn hà Phù Tang. Một nữ samurai Hiệp ước cũng đánh dấu sự chấm dứt triều đại Mạc Phủ (tướng quân) Tokugawa và nước Nhật bắt đầu xảy ra nội chiến (còn gọi là cuộc chiến năm Mậu Thìn - Boshin) kéo dài từ năm 1868 đến năm 1869, diễn ra giữa phe Mạc Phủ và phe muốn phục hồi quyền lực của hoàng đế. Cuộc chiến chấm dứt năm 1869, mở ra triều đại Minh Trị (Meiji) ở Nhật. Nakano Takeko, thuộc quân đội Mạc Phủ, thường tham gia các trận chiến với đội nữ kỵ binh của riêng cô. Cuối cùng trong trận Aizu, diễn ra giữa 5.000 quân gồm các chiến binh và samurai Aizu đấu tranh với 20.000 quân của nhà vua. Chưa nói đến sự chênh lệch quá nhiều về quân số, quân đội của phía Takeko ngoài cung kiếm, đã không được trang bị súng ống như quân đội của hoàng đế. Sau một cuộc xông xáo, chém giết, Nakano Takeko đã bị trúng đạn vào ngực. Cô trăn trối với em gái, bảo chặt lấy thủ cấp của cô đem về để khỏi bị rơi vào tay quân giặc. Bây chừ, tại đền thờ Fukushima vẫn còn lưu lại những di vật của nữ tướng samurai Nakano Takeko. HAI CHIẾN MÃ nức danh TRONG TAM QUỐC CHÍ Khi đọc truyện Tam Quốc Chí, có nhẽ bạn đọc sẽ để ý đến hai chú ngựa ấn tượng nhất trong thời kỳ này, đó là ngựa Xích Thố và ngựa Đích Lư. Cả hai chú ngựa đều là những chiến mã. Nhưng một con thì “hại” chủ và một con thì không. Ngựa Xích Thố ban sơ là của Đổng Trác ban cho Lữ Bố. Tục truyền ngựa dài một trượng, cao tám thước, màu đỏ rực như lửa, không hề có một sợi lông tạp, mỗi ngày có thể đi được ngàn dặm. Khi Lữ Bố chết, ngựa thuộc về Tào Tháo. Sau Tháo tặng nó cho Quan Công (Quan Vũ). Với ngựa Xích Thố, Quan Vũ đã nức tiếng với thành tích “quá ngũ quan, trảm lục tướng” (qua năm ải, chém sáu tướng), một phần là nhờ cưỡi ngựa Xích Thố. Khi Quan Vũ mất, ngựa cũng bỏ ăn bỏ uống chết theo ông. Ngựa Đích Lư cũng là một giống ngựa quý. Chỉ hiềm mắt nó như ứa lệ (Lệ Điểm), nên các nhà coi tướng ngựa nói rằng đó là tướng sát chủ. Có người nói cho Lưu Bị biết chuyện đó. Nghe xong, Bị nói một câu nổi tiếng: “Mạng ta ở Trời chứ không phải ở con ngựa”. Sau đó ông cứ dùng ngựa này mà cưỡi. Về sau, Lưu Bị bị Thái Mạo mang quân truy sát, đến đường cùng ở suối Đàn Khê. Con suối này rộng và sâu. Bị tế ngựa chạy bừa xuống suối thì gặp bãi lầy, không chạy tiếp được. Không ngờ con ngựa chợt vùng lên, phóng cao tới đưa Lưu Bị thoát khỏi Đàn Khê. Sự kiện này khiến ai nấy phải sửng sốt. Nhưng về sau, khi Lưu Bị đưa ngựa Đích Lư cho mưu sĩ Bàng Thống cưỡi. Bàng Thống đi qua hẻm núi tên gọi Lạc Phụng Ba, bị trúng phải loạn tiễn của quân địch do Trương Nhiệm chỉ huy. Cả người lẫn ngựa đều chết, ứng với điềm “Đích Lư hại chủ”. TỪ LIÊN HOÀN GIÁP MÃ ĐẾN THIẾT PHÙ ĐỒ Đây là hai trận đồ lừng danh về ngựa đã được nhắc đến trong lịch sử Trung Quốc. Một có tên là Thiết Phù Đồ, một tên là Liên Hoàn Giáp Mã. Đó là những đội kỵ binh vô địch, tung hoành giữa mặt trận như “đi vào chỗ không người”, gây kinh hồn cho địch quân. Thế nhưng chúng vẫn gặp khắc tinh và bị phá vỡ. Theo trật tự thời gian, trước hết phải nói đến Liên Hoàn Giáp Mã, vốn là sở trường của tướng Hô Diên Chước do triều đình nhà Bắc Tống điều đi để trấn áp Lương Sơn Bạc. Liên Hoàn Giáp Mã là đội quân kỵ với khoảng ba chục con ngựa dàn hàng ngang, cả người lẫn ngựa đều mặc giáp dày kín đáo như tường thành. Sờ soạng đều được kết nối liền lạc thành một khối, chỉ hở bốn chân ngựa, vừa thường dài vừa cung tên đều lao lên cùng lúc, hết hàng này tới hàng khác. Cung tên không động đến được, quả thật lợi hại. Quân Lương Sơn Bạc bị thua to. Thủ lĩnh Tống Giang phải treo miễn chiến bài. Có người hiến kế mời tướng Từ Ninh, ngoại hiệu Kim Sang Ban, sở trường về đánh móc câu có thể phá được Liên Hoàn Giáp Mã. Quân sư Ngô Dụng của Lương Sơn bày kế đưa Từ Ninh về đầu Lương Sơn. Từ Ninh tuyển 500 quân để luyện tập đánh móc câu. Cứ 10 lính đánh móc câu, xen lẫn với 10 lính đánh gậy móc. Trong khi đội móc câu phá ngựa liên hoàn thì quân gậy móc bắt sống người. Quân Liên Hoàn Giáp Mã đã bị dụ vào rừng lau và trúng phải đội quân câu liêm phục kích móc vào chân ngựa khiến cả đám bị gục ngã và bị bắt sống tất tật. Hô Diên Chước đại bại, không còn đường về, về sau cũng đành phải hàng Lương Sơn Bạc. Trận kỵ binh thứ hai là Thiết Phù Đồ. Trong cuộc nam chinh xâm lược Nam Tống, tướng nước Kim là Kim Ngột Truật đã thất trận trước danh tướng nhà Tống là Nhạc Phi. Buộc lòng hắn phải dùng đến đội quân bách thắng Thiết Phù Đồ. Đây là đội kỵ binh tinh nhuệ. Cứ ba lính kỵ nối thành một đội, cả người lẫn ngựa đều mặc giáp rất dày. Lại có hai đội kỵ binh yểm hộ hai bên gọi là Quải Tử Mã. Ban sơ đội quân này đã buông kinh hồn cho quân Tống. Nhạc Phi theo dõi và nghiên cứu cách phá trận. Ông lệnh cho tiền quân mỗi người mang theo một cây búa, chờ cho kỵ binh Kim xung trận thì họ cứ nhằm chân ngựa mà chém. Cứ thế, quân Tống đã đánh cho Thiết Phù Đồ và Quải Tử Mã của quân Kim đến lạc hoa lưu thủy. Nghe tin chiến bại, Ngột Truật đã khóc lóc thảm, nói: “Từ ngày khởi binh đến nay, toàn dựa vào Quải Tử Mã mà chiến thắng, nay không còn hy vọng gì nữa”. Nói chung, hai trận Liên Hoàn Giáp Mã và Thiết Phù Đồ tuy có khác nhau tí đỉnh nhưng đại thể cũng hao hao như nhau. Cách phá trận của Từ Ninh và Nhạc Phi, kẻ dùng móc câu móc chân ngựa, người dùng dao chém chân ngựa, cũng đều là lối đánh vào hạ bàn đối phương để phá vỡ thế trận “liên hoàn mã”. NHỮNG CHIẾN MÃ LỪNG DANH TRONG LỊCH SỬ VIỆT NAM Phù Đổng Thiên Vương Con ngựa thần xuất hiện sớm nhất trong lịch sử Việt Nam đó là con ngựa sắt của Thánh Gióng. Chính nhờ con ngựa đặc biệt này mà Tháng Gióng, tức Phù Đổng Thiên Vương, đã đánh lui giặc Ân xâm lăng. Vào đời vua Hùng Vương thứ sáu, nhà Ân xua quân sang choán Đại Việt, trước nạn nước, cậu bé Gióng đã yêu cầu nhà vua đúc cho “ngựa sắt, roi sắt, áo giáp sắt và nón sắt để đánh giặc”. Tục truyền, sau khi đánh tan giặc, Thánh Gióng đã phi ngựa đến chân núi Sóc Sơn, cởi giáp và nón sắt treo lên cành cây. Sau đó cả người lẫn ngựa sắt đều bay về trời. Danh tướng Lý Thường Kiệt Danh tướng thời Lý là Lý Thường Kiệt có con ngựa quý tên gọi Song Vĩ Hồng. Đuôi ngựa chia làm hai màu: một bên màu hồng, một bên màu trắng. Khi ngựa phi trông như có hai đuôi (nên được gọi là Song Vĩ Hồng - ngựa hồng hai đuôi). Nê Thông là chiến mã của vua Trần Duệ Tông. Theo Đại Việt sử ký toàn thư, nhà vua đã cưỡi con ngựa này đánh thành Đồ Bàn của Chiêm Thành dưới thời Chế Bồng Nga. “Nê” để chỉ ngựa có hai màu lông đen trắng, còn “Thông” là lông ngựa sắc xanh. Nê Thông là giống ngựa quý cực kỳ hiếm có. Điều đáng tiếc là vua Trần Duệ Tông đã trúng kế lừa của Chế Bồng Nga, khi quân Chiêm cho người đến trá hàng nói vua Chiêm đã bỏ trốn, vua tưởng thật đem quân vào thành và bị phục binh giết chết. Nhà Tây Sơn có những chiến mã nổi tiếng, tục gọi là Tây Sơn Ngũ Thần Mã, bao gồm: Ngựa Bạch Long Câu của vua Thái Đức Nguyễn Nhạc. Con bạch mã này là loại “Ngựa Hạc”, chạy nhanh như gió, nhẹ nhõm như bay. Ngựa Xích Kỳ của đô đốc Tuyết, là loại “Ngựa Tía”, lông đỏ và lông đuôi đen. Ngựa thuộc giống Bắc Thảo, vốn là cống phẩm của vua Cao Miên cho Chúa Nguyễn, đô đốc Tuyết đã đoạt được nó từ Võ Vương Nguyễn Phúc Khoát. Ngựa Ngân Câu, thuộc giống Huyết Hãn Mã, của nữ tướng Bùi Thị Xuân. Nó là loại “Ngựa Kim”, nên đặt tên là Ngân Câu. Ngựa Hồng Lư, thuộc giống Huyết Hãn Bảo Câu, của tướng Lý Văn Bưu. Là “Ngựa Hồng Lão”, sắc lông màu nâu hồng ánh vàng. Có đầu giống đầu lừa (hồng lư). Đặc biệt khi con Hồng Lư cất tiếng hí là những con ngựa khác đều kinh hồn bỏ chạy. Ngựa Ô Du của đại tướng Đặng Xuân Phong, lông đen, thuộc giống “Ngựa Ô Qua”. Thuộc loại thần mã về tốc độ. Triều Nguyễn, vua Minh Mạng có một con ngựa quý tên gọi An Tường Ký. Nhà vua từng viết về nó như: “Đô thống Phạm Văn Diễn có dâng con ngựa trắng, dù không là giống ngựa ráo trọi chạy như mây bay, nhưng trẫm cưỡi thấy được yên nên gọi nó là An Tường Ký”.
Đăng ký:
Đăng Nhận xét (Atom)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét