Thứ Ba, 4 tháng 2, 2014

Tìm lại vết tích thân phận và những giai thoại thực hư về ông già Ba Tri

hiện tại, hễ nói "Ông già Ba Tri" mọi người đều hiểu từ để chỉ những ông già mà cứng cỏi, cương quyết bảo vệ công lý. Thế nhưng bây giờ vẫn còn nghi vấn lớn về thân phận thật của ông Ba Tri. Ông là ai? Chân dung ông già Ba Tri (ảnhT.T). Thành ngữ bắt đầu một chuyện kiện cáo Câu chuyện kiện tụng bắt nguồn từ việc đắp đập, ngăn sông liên hệ đến sự phát triển kinh tế giữa hai làng ở gần nhau trên cùng con rạch Ba Tri (thời bấy giờ còn thuộc tỉnh Vĩnh Long, nay là huyện Ba Tri tỉnh Bến Tre). Năm 1806, chợ Trong bên cạnh rạch Ba Tri được thành lập quy tụ nhiều người về đây làm ăn sinh sống. Người quản lý chợ Ngoài (đầu vàm cửa sông Hàm Luông chảy vào con rạch Ba Tri) thấy thương nhân càng ngày càng bỏ chợ vào chợ Trong buôn bán và sinh sống nên chơi ép, đắp đập chặn không cho ghe thuyền từ sông Hàm Luông vào chợ Trong. Dân chúng chợ Trong bất bình đi kiện. Tuy nhiên Phủ Huyện địa phương xử chợ Trong bị thua với lập luận: "Mỗi làng đều có quyền đắp đập trong địa phận làng mình". Dân chợ Trong không chấp phán quyết bất công trên, cử những bô lão trong làng mình kiện lên "trung ương" lúc giờ là triều nhà Nguyễn do vua Gia Long trị vì. Đường từ Ba Tri đến đế đô Huế dài hơn một ngàn cây số và lúc bấy giờ chỉ có hai cách đi: Một là đi bằng thuyền, phải chờ mùa gió thuận, chưa nói đến bão tố hiểm nguy xảy ra thẳng; hai là bằng đường bộ thì lại lắm đèo, nhiều dốc hiểm trở, đầy cọp, beo và giặc cướp ở dọc đường. Thế nhưng những trở ngại to lớn ấy đã không ngăn được ý chí và quyết tâm của các vị bô lão, đại biểu của dân làng Ba Tri. Các cụ già đã ra tận kinh đô bằng sức của đôi chân, họ đi bộ. Ngày đi, đêm nghĩ rốt cục cũng đến Huế. Vua thụ lý rồi xử cho dẹp bỏ đập, với lý do rạch là rạch chung, đường liên lạc chung của cả chợ Ngoài lẫn chợ Trong. Nhờ công lao của các cụ già Ba Tri đi bộ hàng ngàn cây số để kiện cáo rút cuộc con đập cũng được dỡ, người dân cứ truyền miệng nhau kể mãi và họ rút gọn thành "ông già Ba Tri". Từ đó thành ngữ ông già Ba Tri dùng chỉ các cụ già "chân cứng đá mềm" một lòng vì công lý không quản khó khăn kiện đến cùng. Nhiều dị bản về ông già Ba Tri Câu chuyện trên đây đã lưu truyền trong dân gian và cũng đã được ghi lại trong một số sách như: Monographie de la province de Bến Tre (Chuyên khảo tỉnh Bến Tre) do một người Pháp soạn năm 1929, Kiến Hòa xưa và nay của Huỳnh Minh (1965), tỉnh Bến Tre trong lịch sử Việt Nam (từ năm 1757 đến 1954) của Nguyễn Duy Oanh (1971). Cũng như các truyện kể lưu truyền trong dân gian, hoặc được người sau ghi lại trên giấy trắng mực đen, thường có nhiều dị bản khác nhau. Truyện kể về ông già Ba Tri cũng không ra ngoài thông lệ đó. Nếu ở quyển Monographie de la province de Bến Tre và Kiến Hòa xưa và nay chỉ nói đến một ông lão phiếm định, thì ở quyển Tỉnh Bến Tre trong lịch sử Việt Nam (từ năm 1757 đến 1954), của tác giả Nguyễn Duy Oanh lại đưa ra một ông già cụ thể có tên, họ hẳn hoi, gắn liền với dòng dõi, con cháu giờ vẫn còn sống ở xã An Đức, huyện Ba Tri (tỉnh Bến Tre). Theo cuốn sách này thì ông già Ba Tri tên thật Thái Hữu Kiểm, cháu nội ông Thái Hữu Xưa, gốc người Quảng Ngãi, đã sanh cơ lập nghiệp tại Ba Tri từ thế kỷ 18; đã có công giúp Chúa Nguyễn Ánh và được phong chức Trùm cả An Bình Đông quận Ba Tri. Chợ Trong do chính ông nội của ông Kiểm xây dựng nên. Sau đó theo truyền thống, ông Kiểm lại làm Cả, chính ông Kiểm cùng hai kỳ lão là Nguyễn Văn Tới và Lê Văn Lợi, sờ soạng hành lí lên đường đi bộ từ Ba Tri ra Huế - đường dài trên 1.000 cây số, để thượng tố lên Vua xin phúc án lại phán quyết bất công của địa phương! Mặc dù có nhiều dị bản, nhưng một điều dễ nhận thấy là cốt lõi của những câu chuyện là sự đề cao ý thức can đảm, ý chí kiên tâm, bền chí bảo vệ lẽ phải đến cùng, bất chấp mọi trở ngại, nguy hiểm qua hình tượng của các cố lão địa phương - người đại diện cho ước vọng, phẩm cách và ý chí của dân làng. Có lẽ đó là điều mà mọi người quan hoài nhiều nhất. Vượt qua thời gian và không gian, câu chuyện Ông già Ba Tri được người sau thêm thắt một số chi tiết, làm cho giai thoại trở nên sinh động hơn, đó cũng là căn do dẫn đến những dị bản. Hiện tại, danh từ "Ông già Ba Tri" đã trở nên sự biểu trưng cho đức tính cao đẹp, một biểu tượng về đạo lý sống của Nhân dân ở một vùng đất vốn có truyền thống chống chọi kiên cường, quật cường. Con cháu ông già Ba Tri kế nghiệp tổ luật sư Thái Kim Sơn, cháu 8 đời của ông già Ba Tri. (Ảnh T.T). Để rõ thực hư những câu chuyện trên, chúng tôi đã tìm về thị trấn Ba Tri, huyện Ba Tri, tỉnh Bến Tre (ngày xưa là cả An Bình Đông, quận Ba Tri, tỉnh Vĩnh Long) nơi con cháu đời thứ 8, thứ 9 của cụ Thái Hữu Kiểm sinh sống và làm việc. Tiếp chúng tôi là trạng sư Thái Kim Sơn (cháu đời thứ 8), khi biết chúng tôi tìm hiểu về nguồn cội câu thành ngữ "Ông già Ba Tri", luật sư Sơn từ tốn "không biết đúng không, nhưng ông cụ 8 đời trước của tôi là Thái Hữu Kiểm". Ông Sơn cho biết, câu thành ngữ này cùng câu chuyện kiện tụng đã lưu truyền nhiều đời trong hụi, cụ cố ông là ông Kiểm có tham gia đi bộ đến đế kinh Huế để kiện nhưng không phải đi một mình mà đi với hai cụ nữa. Chính vì lý do này mà luật sư Sơn cũng không dám khẳng định cụ cố 8 đời có phải là người khởi xướng vụ kiện hay không. Nhưng luật sư Sơn lại cho biết "không biết có phải do di truyền để lại hay chứ hiện tính cả cháu đời thứ 8, 9 đã có hơn chục người học ngành luật, có ba người đang hành nghề luật sư, trong đó có tôi". Trước đây, chúng tôi đã từng gặp ông Thái Hữu Yến, hậu duệ đời thứ 6 của ông Thái Hữu Kiểm sinh sống tại phường 7 Thị xã Bến Tre. Qua ông Yến người viết bài này biết thêm được rất nhiều thông tin thú nhận, độc đáo mà chưa có sử, sách nào ghi lại về ông già Ba Tri. Theo ông Yến, Cả Hạc chủ chợ Ngoài người chỉ huy đấp con đập cũng có ra tận Huế tham dự vụ kiện tụng. Ông Kiểm và ông Cả Hạt vốn là bạn thân với nhau, sau khi sự cố đắp rạch xảy ra, về tình cảm hai người vẫn giữ được hòa khí, nhưng về lý thì chẳng ai chịu ai. Sự việc buộc phải đưa lên quan phủ Vĩnh Long. Quan phủ Vĩnh Long xử Cả Hạc thắng kiện nhưng ông Kiểm không chịu, đòi ra Huế nhờ vua phán xử. Trước thái độ kiên quyết của ông Kiểm, Cả Hạt muốn cho ông Kiểm "tâm phục khẩu phục" đã đồng ý hùn tiền để ra Huế nhờ Vua xét xử coi ai đúng ai sai. Trước khi đi hai người còn mời ông Trần Văn Tới cùng đi với vai trò làm chứng. Đằng đẵng gần trăm ngày đêm, trèo đèo, lội suối, vượt qua bao gian nan nặng nhọc, hai con người vừa làm bạn, vừa kiện cáo lẫn nhau đã ra tới kinh kì. Sự vụ chủ nghĩa thưa kiện với nhiều tình tiết lạ lùng gần như có một trong hai trong đời Vua Minh Mạng được đem ra xét xử. Sau khi phân tách sự vụ chủ nghĩa một cách thấu tình đạt lý cho cả hai, Vua phân xử ông Kiểm thắng kiện. Xong việc, cả ba lại quày quả đi bộ về quê, điều độc đáo là cả hai vẫn nghĩa tình với nhau, không tư thù, oán trách. Đó là một hành động đẹp về người phương Nam xưa đi mở cõi. Thành Trương

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét